Thành Hà Nội từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20
                                       Sự chuyển đổi từ kinh thành Thăng Long sang tỉnh thành Hà Nội
                                       Năm 1788, Lê  Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đem đại              quân  290.000 người sang chiếm Thăng Long không tốn một hòn tên mũi               đạn. Dựa thế quân Thanh, Lê Chiêu Thống điên cuồng trả thù họ Trịnh.               Phủ chúa bị Lê Chiêu Thống đốt trụi, cháy ròng rã một tuần  mới hết.              Tất cả những gì liên quan đến chúa Trịnh ở Thăng  Long bị phá sạch.              Kinh thành lại một lần nữa ra tro.
            Đầu năm 1789, Quang Trung Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba đánh  tan quân              Thanh, Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, triều  Hậu Lê kết thúc,              Quang Trung định đô ở Phú Xuân. Thăng Long  chỉ còn là Bắc thành.
                                       Năm 1802 sau  khi tiêu diệt xong Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng              Đế.  Kinh đô vẫn được đặt ở Phú Xuân. Thăng Long vẫn mang tên là               Thăng Long nhưng chữ "Long" là rồng bị chuyển thành chữ "Long" với               nghĩa là thịnh vượng, ý rằng nhà vua không còn ở đấy. 
                                       Đồng thời,  những gì còn sót lại của Hoàng thành sau những trận đại              hủy  diệt cuối thế kỷ 18 cũng lần lượt bị các đời vua nhà Nguyễn               chuyển nốt vào Phú Xuân phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh thành               mới. Chỉ duy có điện Kính Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm  hành              cung cho các vua Nguyễn mỗi khi ngự giá Bắc thành.
                                       Năm 1805, Gia  Long cho phá bỏ tường của Hoàng thành cũ vì cho rằng              đây  chỉ còn là Trấn Bắc thành mà Hoàng thành Thăng Long thì rộng lớn               quá. Gia Long cho xây dựng thành mới theo kiểu Vô-băng của Pháp.  Về              quy mô thì nhỏ hơn thành cũ nhiều.
                                       Năm 1831,  trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đã cho đổi              tên  Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Cái tên này tồn tại cho đến năm               1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp. Người               Pháp đổi tỉnh Hà Nội thành thành phố Hà Nội. 
             
             Hình vuông trên bản              đồ là Hoàng thành trong bản đồ Hà Nội năm 1885.
                                                     Đến khi chiếm xong toàn Đông Dương họ lại chọn đây là thủ  đô của              Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Thành Hà Nội bị phá  đi hoàn toàn để              lấy đất làm công sở và trại lính cho người  Pháp. Ngoại trừ cửa Bắc              và Cột Cờ những gì còn sót lại của  thành Hà Nội đến hôm nay chỉ là              di chỉ khảo cổ và phục  dựng.
            
Tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn
                                       Thành Hà Nội  do Gia Long xây dựng cũng làm theo thể thức các tỉnh              thành  khác và điều chủ yếu là không được to rộng hơn Phú Xuân. Thành               vuông xây theo kiểu Vô-băng của Pháp. Thành hình vuông mỗi bề chừng               một cây số xung quanh là hào nước sâu.
                                       Tường thành  xây bằng gạch hộp, chân thành xây bằng đá xanh và đá ong.               Tường cao một trượng một thước, dày bốn trượng. Thành mở ra năm cửa               là: cửa Đông (tương ứng với phố cửa Đông bây giờ), cửa Tây  (tương              ứng với phố Bắc Sơn hiện nay), cửa Bắc (nay vẫn  còn), cửa Tây Nam (tương              ứng với chợ Cửa Nam hiện nay), cửa  Đông Nam (tương ứng với đoạn giao              phố Điện Biên Phủ và  Nguyễn Thái Học bây giờ).
Đường vào cửa xây vòm              xuyên qua  tường thành dài 23m. Trên mỗi cửa có lầu canh gọi là thú               lâu.
                                       Xung quanh  tường thành là một dải đất rộng 6-7m rồi đến một con hào               rộng 15-16m, sâu 5m thông với sông Tô Lịch và sông Hồng. Hào lúc nào               cũng có nước nhưng thường chỉ cao khoảng 1m.
            Phía ngoài các cổng thành có xây một hàng tường đắp liền  trên bờ hào              gọi là Dương mã thành, dài 2 trượng 9 thước,  cao 7 thước 5 tấc. Các              Dương mã thành đều có một cửa bên  gọi là Nhân Môn. Từ ngoài thành đi              vào đều phải đi qua Nhân  Môn rồi mới đến cổng thành. Phía trong              thành được bố trí  như sau:
                                       Ở trung tâm  thành là điện Kính Thiên được xây dựng từ thời Lê trên              núi  Nùng. Điện dựng trên những cột gỗ lim lớn người ôm không xuể.               Thềm điện có hai đôi rồng đá rất đẹp cũng từ thời Lê, về sau điện               này bị người Pháp phá hủy và xây trên nền cũ tòa nhà Con Rồng  để làm              trụ sở pháo binh Pháp. 
            Sau năm 1954 nhà Con Rồng lại trở thành trụ sở của Bộ Tổng  Tham mưu              Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đây cũng chính là nơi  diễn ra cuộc họp              Bộ Chính trị mở rộng ngày 21/3/1975 hạ  quyết tâm giải phóng miền Nam              trong hai năm 1975-1976.
                                       Phía đông  thành là nhiệm sở của Tổng trấn bắc thành phía tây là kho               thóc, kho tiền, và dinh bố chính là viên quan phụ trách những kho ấy.               Năm 1812 dựng Cột cờ Hà Nội ở phía nam thành. Năm 1835, vì  cho rằng              thành Hà Nội cao hơn kinh thành Huế, Minh Mạng cho  xén bớt 1 thước 8              tấc, thành Hà Nội chỉ còn cao chừng 5m,  Năm 1848, vua Tự Đức cho              tháo dỡ hết những cung điện còn  lại ở Hà Nội chuyển vào Huế.
                                       Tháng 12/2003,  kết thúc việc khai quật một phần khu thành cổ, hơn 4              triệu  hiện vật đã được phát hiện. Nhiều tầng văn hóa qua các triều               đại Phong kiến từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 19 về tòa thành Đại La-Thăng               Long-Hà Nội đã phát lộ ra.
                                       Khu vực khai  quật hiện nay nằm về phía tây của điện Kính Thiên trong               Hoàng Thành thời Lê sơ. Rõ ràng đây là di tích của một phần phía tây               Hoàng Thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung  Hưng thế              kỷ 11-13, ngược lên thành Đại La thế kỷ 7-9 và kéo  dài đến thành Hà              Nội thế kỷ 19. 
            Khu di tích bộc lộ một bề dày lịch sử từ thế kỷ 7 đến thế kỷ  19 gồm              thời tiền Thăng Long, thời Thăng Long và Hà Nội.  Các di tích và tầng              văn hóa chồng xếp lên nhau qua nhiều  thời kỳ lịch sử một cách khá              liên tục. 
Thật hiếm có một khu  di tích lịch sử-văn hoá trải dài qua              nhiều thời kỳ lịch sử  như vậy giữa vùng đất trung tâm của thủ đô và              cũng thật  hiếm có thủ đô một nước có lịch sử lâu đời lại phát hiện               một quần thể di tích chảy dài suốt bề dày lịch sử như vậy.
                                       Kết quả khai  quật cho thấy đây là khu trung tâm của Hoàng thành              Thăng  Long thời Lý, Trần và Lê, với một quần thể nhiều loại hình di               tích kiến trúc dưới lòng đất, minh chứng lịch sử lâu dài của Kinh đô               Thăng Long qua gần 1.300 năm, từ thời Tiền Thăng Long (thế  kỷ 7-9)              đến thời kỳ Thăng Long-Hà Nội. 
            Giá trị nổi bật và tính độc đáo của khu di tích này là có  nhiều tầng              văn hóa của nhiều thời kỳ nằm chồng xếp, đan xen  nhau, tiếp nối nhau              liên tục không đứt đoạn, phản ánh mối  quan hệ về quy hoạch đô thị và              không gian kiến trúc, cũng  như sự tiếp nối giữa các triều đại trong              lịch sử xây dựng  kinh đô..
            Các di tích kiến trúc và một khối lượng rất lớn di vật cho  thấy một              phần qui mô và diện mạo của Hoàng Thành cùng đời  sống cung đình của              vua quan, quý tộc qua các thời kỳ lịch  sử.
            Bên cạnh đó, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy hàng triệu di  vật khảo              cổ, trong số đó có nhiều đồ gốm sứ của Trung Quốc,  Nhật Bản, Tây Á              minh chứng mối quan hệ, sự giao lưu kinh  tế, văn hóa rộng mở của              kinh đô Thăng Long trong lịch sử.
                                       Khu di tích  Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là di tích lịch sử và              kiến  trúc nghệ thuật quốc gia, cũng là di tích đặc biệt quan trọng               của Hà Nội và cả nước, được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt (đợt               1) ngày 12/8/2009.
                                      
	
	
	
		
		
		
		
	
	
 Một              số di tích còn lại của Hoàng thành Thăng Long
Bắc Môn                           
 
                          Bắc Môn              ngày nay
                                        Bắc Môn (Cửa Bắc) là cổng duy nhất còn lại trong khu Hoàng Thành  của              thành Hà Nội thời nhà Nguyễn, có chức năng qua lại giữa  Hoàng              Thành-khu triều chính và Kinh Thành là khu dân cư.  Trước kia bên              ngoài của Hoàng Thành còn có con kênh rộng  chừng 20m.
                                       Bắc Môn đã  hoàn thành việc trùng tu tôn tạo, phục vụ cho du lịch.              Tuy  nhiên vết tích quả đạn pháo từ tàu chiến của Pháp bắn ngày               25/4/1873 vẫn giữ nguyên trên mặt tường phía ngoài của chính Bắc Môn.
            Hai cánh cổng bằng gỗ đã được trùng tu, diện tích mỗi cánh  12m2,              trọng lượng khoảng 16 tấn, chạy trên bánh xe bằng  đồng nặng chừng              80kg. Ngày nay trên cổng thành là nơi thờ  hai vị Tổng đốc Hà Nội là              Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và  Tổng đốc Hoàng Diệu.
                          
                                       
Hậu Lâu là một tòa lầu (còn có tên Tĩnh Bắc lâu) xây dựng phía sau               cụm kiến trúc chính- Hành Cung của thành Hà Nội. Hậu Lâu nằm ở  phía              sau và thuộc phía bắc Hành Cung.
                                       Theo phong  thủy thì ngôi lầu có ý nghĩa giữ bình yên phía bắc Hành               Cung nên mới có tên là Tĩnh Bắc lâu. Tương truyền xưa kia mỗi lần               vua đi tuần du thì lầu là nơi nghỉ ngơi của công chúa nên còn có  tên              là lầu Công Chúa.
                          
                                        Đoan Môn là tên gốc chưa bị thay đổi, đây là cổng duy nhất  nối Cung              Thành và Hoàng Thành. Đoan Môn có cấu trúc theo  kiểu tam quan cửa              vòm cuốn, có chiều dài 46,5m, ngang kể cả  cánh gà 26,5m, cao 6m, với              ba cửa. Cửa chính giữa chỉ dành  cho nhà vua qua lại, hai cửa hai bên              để cho các đối tượng  khác. Phía trên có vọng lâu được xây kiên cố              bằng gạch, đá.  Công trình được mở cửa đón khách tham quan từ năm              2001.
                          
                                       
Cột Cờ xây dựng năm 1812, dưới triều vua Gia Long, là một trong               những công trình kiến trúc nằm trong khu vực thành cổ Hà Nội còn               nguyên vẹn, hiện đang nằm trong khuôn viên Viện Bảo tàng Lịch  sử              quân sự Việt Nam.
                                       Cột Cờ cao hơn  40m, hình tám cạnh, đứng trên ba cấp hình vuông. Cấp              dưới  cùng mỗi cạnh dài 42m, cấp trên cùng mỗi cạnh dài 13m. Cấp giữa               mở 4 cửa, chỉ 3 cửa có tên là Nghênh Húc (đón ánh nắng mai) ở phía               đông, cửa Hướng Minh (hướng về ánh sáng) ở phía Nam và cửa  Hồi Quang              (ánh sáng phản chiếu) phía tây. Có cầu thang xoáy  ốc, 51 bậc dẫn lên              tới đỉnh cao. Đỉnh cột cờ hình khối bát  giác có trụ để cắm cờ.
                                       Cột Cờ đã được trùng tu hai lần: vào tháng 12/1959 và tháng 11/1989.
                          
Điện Kính Thiên và đôi Rồng đá điện Kính Thiên
             
             
	
	
	
		
		
		
		
	
	                                        
Điện Kính Thiên, vốn là Trung tâm của Hoàng Thành thời nhà Lê, của               thành Hà Nội thời nhà Nguyễn. Thềm điện gồm 9 bậc, được ngăn  thành              ba lối lên. Thành bậc ngang 13,7m, dọc 4,45m, cao  bằng nền điện 2,1m              nói lên thế khang trang của điện Kính  Thiên xưa.
                                       Rồng đá điện  Kính Thiên là một di sản kiến trúc nghệ thuật tuyệt tác,               tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê sơ. Được chạm trổ bằng đá               xanh, rồng đá có đầu nhô cao, đầu to, mắt tròn lồi, sừng dài  có              nhánh, bờm lượn ra sau, miệng há nhỏ, ngậm hạt ngọc.
                                                     Hai thành bậc ở hai bên thềm điện là hai khối đá chạy dài,  chính là              hai con rồng được cách điệu hoá. Nền điện Kính  Thiên và đôi rồng              chầu đã phản ánh được quy mô hoành tráng  của điện Kính Thiên xưa.
             
Theo TTX